Lịch sử hoạt động South Dakota (lớp thiết giáp hạm) (1939)

Những chiếc trong lớp

TàuĐặt lườnHạ thủyHoạt độngSố phận
South Dakota5 tháng 7 năm 19397 tháng 6 năm 194120 tháng 3 năm 1942Ngừng hoạt động 31 tháng 1 năm 1947; bán để tháo dỡ 25 tháng 10 năm 1962
Indiana20 tháng 11 năm 193921 tháng 11 năm 194130 tháng 4 năm 1942Ngừng hoạt động 11 tháng 9 năm 1947; bán để tháo dỡ tháng 10 năm 1963
Massachusetts20 tháng 7 năm 193923 tháng 9 năm 194112 tháng 5 năm 1942Ngừng hoạt động 27 tháng 3 năm 1947; hiện là tàu bảo tàngFall River, Massachusetts
Alabama1 tháng 2 năm 194016 tháng 2 năm 194216 tháng 8 năm 1942Ngừng hoạt động 9 tháng 1 năm 1947; hiện là tàu bảo tàng ở Mobile, Alabama

South Dakota

South Dakota thả neo tại Iceland vào ngày 24 tháng 6 năm 1943
Bài chi tiết: USS South Dakota (BB-57)

South Dakota được đặt lườn vào ngày 5 tháng 7 năm 1939 bởi hãng New York Shipbuilding Corporation tại Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 6 năm 1941 và đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 3 năm 1942. Nó thực hiện một chuyến đi chạy thử máy vào tháng 6 sau khi hoàn tất việc trang bị. Trong tháng 8tháng 9, chiếc thiết giáp hạm mới di chuyển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama. Nó va phải một dãi san hô không lâu sau khi đi đến quần đảo Tonga và phải đi đến Xưởng hải quân Trân Châu Cảng để sửa chữa mất gần một tháng. South Dakota sau đó được phân công hộ tống tàu sân bay Enterprise trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm 16; được Lực lượng Đặc nhiệm 17 tháp tùng không lâu sau đó; lực lượng kết hợp này, được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 61, được lệnh "càn quét quần đảo Santa Cruz rồi tiến ra hướng Tây Nam ngăn chặn mọi lực lượng Nhật Bản mưu toan tiếp cận Guadalcanal." Điều này đã đưa đến Trận chiến quần đảo Santa Cruz nơi South Dakota, trong khi hộ tống Enterprise, bị đánh trúng một quả bom 227 kg (500 lb) lên tháp pháo 406 mm (16 inch) phía trước, nhưng cũng đã bắn rơi 26 máy bay Nhật Bản.[15]

Ngày 30 tháng 10, South Dakota bị tai nạn va chạm với tàu khu trục Mahan khi chiếc này theo dõi dấu vết phát hiện tàu ngầm đối phương bằng sonar. Cả hai vẫn có thể tiếp tục đi đến Noumea bằng chính động lực của mình, nơi chiếc tàu bảo trì Vestal tiến hành sửa chữa cho chúng. South Dakota gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 64 cùng với thiết giáp hạm Washington thuộc lớp North Carolina và bốn tàu khu trục. Các tàu chiến Mỹ đã đánh chặn một lực lượng bắn phá Nhật Bản trong đêm 1415 tháng 11, và trong cuộc đối đầu được biết đến dưới tên gọi Trận hải chiến Guadalcanal thứ hai, chúng đã gây hư hại cho các tàu tuần dương TakaoAtago ngoài việc buộc thiết giáp hạm Kirishima và tàu khu trục Ayanami phải đánh đắm. Tuy nhiên, bản thân South Dakota bị hư hại lan rộng khi 42 quả đạn pháo đã bắn trúng cấu trúc thượng tầng, phá hỏng hệ thống vô tuyến liên lạc và ba bộ radar kiểm soát hỏa lực và phá hủy dàn radar chính.[15]

Công việc sửa chữa một phần do con tàu sửa chữa Prometheus thực hiện cho phép South Dakota có thể lên đường hướng về New York; và sau khi con tàu đến nơi vào ngày 18 tháng 12 năm 1942, nó được đại tu và sửa chữa toàn bộ những hư hại trong chiến trận. Rời xưởng tàu ngày 25 tháng 2 năm 1943, South Dakota tiến hành chạy thử máy trước khi hộ tống tàu sân bay Ranger trong các hoạt động tại khu vực Bắc Đại Tây Dương cho đến giữa tháng 4, khi nó gia nhập Hạm đội Nhà Anh Quốc. Đợt bố trí này kéo dài cho đến ngày 1 tháng 8, khi con tàu quay trở về Norfolk rồi tiếp tục đi sang Thái Bình Dương, đi đến Efate vào ngày 14 tháng 9. Di chuyển đến Fiji vào ngày 7 tháng 11, nó tham gia các hải đội thiết giáp 8 và 9 hỗ trợ các lực lượng Đồng Minh trong trận Tarawa cùng nhiều trận chiến khác.[15]

Cùng với năm thiết giáp hạm khác, South Dakota bắn pháo lên đảo Nauru vào ngày 6 tháng 12; và đến ngày 29 tháng 1 năm 1944 nó lại bắn pháo xuống Roi-Namur trước khi lên đường hộ tống cho các tàu sân bay trong nhiệm vụ hỗ trợ trên không cho nhiều cuộc đổ bộ lên các đảo trong khu vực đảo san hô Kwajalein. South Dakota đã hỗ trợ phòng không cho nhiều lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh khác nhau cho đến tháng 6, khi nó tiến hành nả pháo xuống SaipanTinian. Chiếc thiết giáp hạm cũng từng tham gia cái được gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", nơi hơn 300 máy bay Nhật Bản tấn công bị bắn rơi chỉ trong vòng một ngày.[15]

Trong khoảng thời gian còn lại của Thế Chiến II, South Dakota hoạt động tại Thái Bình Dương hầu như trong vai trò hộ tống tàu sân bay, ngoại trừ một đợt đại tu tại Xưởng hải quân Puget Sound từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1944; khi năm thùng thuốc súng dành cho pháo 406 mm (16 inch) phát nổ vào ngày 6 tháng 5 khiến nó phải ngưng hoạt động cho đến 1 tháng 6; và vào các đợt bắn pháo xuống Okinawa (24 tháng 319 tháng 4), Nhà máy thép Kamaishi trên đảo Honshu (14 tháng 79 tháng 8) và Hamamatsu tại Honshū (2930 tháng 7).[15] South Dakota có mặt tại vịnh Tokyo vào lúc văn kiện chính thức về việc Nhật Bản đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạm Missouri vào ngày 2 tháng 9 năm 1945;[16] và nó rời Nhật Bản vào ngày 20 tháng 9 năm 1945 quay trở về Bờ Tây Hoa Kỳ. Chiếc thiết giáp hạm lên đường hướng về Philadelphia vào ngày 3 tháng 1 năm 1946 để được đại tu; nó được điều về Hađm đội Dự bị Đại Tây Dương tại đây vào tháng 6. Được cho ngừng hoạt động vào ngày 31 tháng 1 năm 1947, South Dakota bị bỏ không cho đến khi được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962 và được bán cho Bộ phận Lipsett thuộc hãng Luria Brothers and Company, Inc. vào ngày 25 tháng 10 năm 1962 để tháo dỡ.[15][17]

Indiana

Indiana vào tháng 1 năm 1944, trên đường đi để hỗ trợ cho cuộc chiến đóng quần đảo Marshall
Bài chi tiết: USS Indiana (BB-58)

Indiana được đặt lườn vào ngày 20 tháng 11 năm 1939 bởi hãng Newport News Shipbuilding and Drydock Company tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 11 năm 1941; và trong quá trình hoàn tất chiếc thiết giáp hạm Kearsarge, vốn được cải tạo thành một tàu cần cẩu, đã giúp vào việc đặt các tháp pháo 406 mm (16 inch) vào bệ pháo. Nó được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 4 năm 1942, và sau các hoạt động chạy thử máy, nó được gửi trực tiếp đến quần đảo Solomon. Indiana đi đến ngoài khơi Guadalcanal vào ngày 9 tháng 11 năm 1942 và thay phiên cho con tàu chị em South Dakota vốn đang cần được sửa chữa. Các hoạt động của Indiana ngoài khơi Guadalcanal chủ yếu bao gồm việc bắn phá bờ biển hỗ trợ cho lực lượng Thủy quân Lục chiến đang chiến đấu trên đảo.[18]

Vào tháng 11 năm 1943, Indiana tham gia cuộc tấn công Tarawa cùng với thiết giáp hạm chị em South Dakota, và trong trận này Indiana đã bắn rơi chiếc máy bay đối phương đầu tiên. Chiếc thiết giáp hạm cũng tham gia cuộc tấn công quần đảo Marshall. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1944, thiết giáp hạm Washington đã va chạm với Indiana bên mạn phải con tàu, khiến 13 khoảng trống trong hệ thống bảo vệ chống ngư lôi cùng 13 ngăn chứa nhiên liệu bị ngập nước, và các vách ngăn dọc bị hư hại nghiêm trọng. Trục chân vịt và chân vịt ngoài cùng bên mạn phải bị hư hại.[18] Hai khẩu đội 40 mm bốn nòng và 9 khẩu 20 mm bị phá hủy, cùng với hai bệ pháo 20 mm.[19] Máy phóng máy bay bên mạn phải của Indiana bị xé toạch khỏi con tàu cùng với chiếc thủy phi cơ Kingfisher đặt bên trên nó. Con tàu bị nghiêng về mạn phải, và được cân bằng lại bằng cách cho ngập đối xứng bên mạn trái. Indiana hướng về vũng biển Majuro để được sửa chữa tạm thời, đủ để cho nó có thể thực hiện chuyến đi quay trở về Trân Châu Cảng. Công việc sửa chữa phải thực hiện cho nó là việc sửa chữa lớn nhất mà Trân Châu Cảng phải gánh vác ngoài những chiếc thiết giáp hạm bị hư hại trong cuộc tấn công khai mào chiến tranh.[20]

Khi quay trở lại chiến trường, Indiana tham gia các chiếm đóng Hollandia tại phía Tây New Guinea. Sau đó con tàu hướng đến khu vực Trung tâm Thái Bình Dương tiến hành bắn phá Truk, rồi tiếp tục tham gia các hoạt động ngoài khơi quần đảo Mariana. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1944, một máy bay ném ngư lôi Nhật Bản tìm cách tấn công con tàu, nhưng các xạ thủ phòng không của Indiana đã tiêu diệt được cả chiếc máy bay lẫn quả ngư lôi mà không gây thiệt hại nào. Không lâu sau đó, thêm một máy bay Nhật Bản bị bắn rơi, nhưng một chiếc bay thứ ba đã tìm cách đâm bổ vào chiếc thiết giáp hạm. Chiếc máy bay vỡ tung khi đâm vào vỏ giáp hông, tung mảnh vụn khắp phần đuôi con tàu. Năm người đã bị thương, nhưng con tàu chỉ bị hư hại nhẹ.[20]

Indiana quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound tiến hành một đợt đại tu cần thiết, và công việc này kéo dài cho đến tháng 1 năm 1945; con tàu quay trở lại khu vực chiến sự vào ngày 24 tháng 1. Indiana tham gia bắn phá Iwo Jima cùng các đợt tấn công lên các đảo chính quốc Nhật Bản. Sau đó Indiana gia nhập lực lượng đặc nhiệm được tập trung để tấn công Okinawa, thực hiện bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng trên bờ cũng như bảo vệ phòng không chống lại các cuộc tấn công Kamikaze ngày càng gia tăng nhắm vào hạm đội đổ bộ. Indiana tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ này cho đến khi chiến tranh kết thúc vào tháng 8 năm 1945.[20]

Vào năm 1947, Indiana được đưa về lực lượng dự bị tại Puget Sound. Cuối cùng nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962, và được án để tháo dỡ vào ngày 6 tháng 9 năm 1963 với trị giá 418.387 Đô la Mỹ. Công việc tháo dỡ con tàu hoàn tất vào năm 1964.[20] Cột ăn-ten của chiếc thiết giáp hạm được trao tặng cho Viện đại học Indiana tại Bloomington, trong khi chiếc neo của nó được trưng bày tại Fort Wayne.[21]

Massachusetts

Massachusetts đang di chuyển với tốc độ 28 km/h (15 knot) ngoài khơi Point Wilson, Washington vào ngày 11 tháng 7 năm 1944.
Bài chi tiết: USS Massachusetts (BB-59)

Massachusetts, chiếc thứ ba trong lớp, được đặt lườn vào ngày 20 tháng 7 năm 1939 tại xưởng tàu Fore River của hãng Bethlehem Steel Corporation tại Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 9 năm 1941 và đưa ra hoạt động vào ngày 12 tháng 5 năm 1942.[22] Sau chuyến đi chạy thử máy, chiếc thiết giáp hạm rời vịnh Casco, Maine vào ngày 24 tháng 10 năm 1942 để hỗ trợ cho Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi, như là soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân Phương Tây.[23] Cùng với các tàu tuần dương hạng nặng TuscaloosaWichita cùng bốn tàu khu trục, Massachusetts đi đến Casablanca vào chiều tối ngày 7 tháng 11.[22] Chiếc thiết giáp hạm Pháp chưa hoàn tất Jean Bart, thiếu một trong các tháp súng 380 mm/45 caliber bốn nòng, đang ở tại cảng này sau khi đi đến đây vào năm 1940 né tránh việc Đức chiếm đóng Pháp.[24] Sáng hôm sau, máy bay Mỹ bị hỏa lực phòng không kháng cự và hai tàu ngầm Pháp bị phát hiện đang rời khỏi cảng; rồi đến 7 giờ 03 phút khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải tại El Hank đã bắn vào Massachusetts. Người ta nhầm lẫn là hỏa lực nói trên được bắn từ Jean Bart, nên đã có lệnh vô hiệu hóa chiếc thiết giáp hạm. Massachusetts đã bắn trúng Jean Bart năm phát, phá hỏng tháp pháo chính còn hoạt động duy nhất của nó.[22] Massachusetts cũng gây hư hại nặng cho tàu khu trục Le Malin, khiến nó bị lật úp sau đó. Bốn tàu buôn và một tàu cần cẩu cũng bị tiêu diệt.[25]

Trong cuộc giao chiến, bày tàu khu trục Pháp tìm cách thoát ra khỏi cảng đi đến các bãi đổ bộ. Lúc 8 giờ 55 phút, Massachusetts tăng tốc độ để tấn công các tàu khu trục. Khẩu đội bờ biển tại El Hank tiếp tục nổ súng vào con tàu, và lúc 10 giờ 00, một phát đạn pháo 193 mm (7,6 inch) của nó bắn trúng mạ trái con tàu giữa hai tháp pháo phía trước. Quả đạn pháo xuyên qua sàn bọc thép và gây một đám cháy nhỏ nhưng được dập tắt nhanh chóng. Vào lúc này, tàu tuần dương Pháp Primauguet và hai tàu khu trục khác rời cảng. Massachusetts và Tuscaloosa đã đánh chìm Fougeaux, rồi đến 10 giờ 05 phút một phát đạn pháo 406 mm (16 inch) từ Massachusetts bắn trúng Le Milan loại nó khỏi vòng chiến. Primauguet bị buộc phải rút lui sau khi nó trúng một phát đạn pháo 406 mm (16 inch) của Massachusetts và một số đạn pháo cỡ nhỏ hơn từ các tàu tuần dương Mỹ BrooklynAugusta. Trong các hoạt động ngoài khơi bờ biển Bắc Phi trong ngày 8 tháng 11, Massachusetts đã bắn 786 quả đạn pháo chính và 221 quả đạn pháo 127 mm (5 inch).[25]

Sau các hoạt động thành công ngoài khơi Bắc Phi, Massachusetts được đưa về đại tu tại Xưởng hải quân Boston, rồi sau đó lên đường hướng sang Mặt trận Thái Bình Dương, và đi đến Nouméa vào ngày 4 tháng 3 năm 1943.[25] Chiếc thiết giáp hạm hỗ trợ các hoạt động tại Nam Thái Bình Dương trong những tháng tiếp theo, bao gồm việc bảo vệ các tuyến đường vận chuyển, hộ tống các tàu sân bay và bắn phá các vị trí của quân Nhật trên nhiều đảo khác nhau, bao gồm Nauru vào ngày 8 tháng 12 năm 1943Kwajalein vào ngày 30 tháng 1 năm 1944. Quay trở lại nhiệm vụ hộ tống tàu sân bay sau đợt bắn pháo sau cùng, Massachusetts bảo vệ phòng không trong khi lực lượng Đồng Minh tung các đợt không kích xuống Saipan, TinianGuam. Sau đó nó còn hỗ trợ cho các cuộc tấn công tại quần đảo Caroline và tại Hollandia. Sau khi bắn pháo xuống đảo Ponape vào ngày 1 tháng 5, con tàu lên đường quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound để đại tu, và cũng để xẻ rãnh lại các nòng pháo đã bị nhẵn trong chiến đấu.[23]

Massachusetts trên đường đi

Quay trở lại khu vực chiến sự, Massachusetts rời Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 8 năm 1944. Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 38, nó hỗ trợ cho các lực lượng đổ bộ chung quanh vịnh Leyte, và bảo vệ cho các đội đặc nhiệm tàu sân bay tấn công tàu chiến đối phương trong Trận chiến vịnh Leyte, Okinawa và Đài Loan. Di chuyển đến Philippine, chiếc thiết giáp hạm bảo vệ các tàu bè và binh lính Đồng Minh trong Trận Mindoro và nằm trong thành phần của lực lượng tấn công Manila. Massachusetts cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 38 đã đi đúng vào tâm của cơn bão Cobra, với sức gió 220 km/h (120 knot). Nó tiếp tục hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38 từ ngày 30 tháng 12 năm 1944 đến ngày 23 tháng 1 năm 1945; tấn công lên Đài Loan và Okinawa cùng hỗ trợ cho hoạt động đổ bộ lên Lingayen, cũng như đột nhập vào biển Nam Trung Quốc tấn công các tàu bè Nhật Bản.[23]

Từ tháng 2 đến cuối tháng 3 năm 1945, Massachusetts hỗ trợ phòng không cho các chiến dịch không kích lên các đảo Honshū, Iwo Jima và Kyushu. Vào ngày 24 tháng 3, nó bắn pháo xuống Okinawa; rồi trong khoảng thời gian còn lại của tháng đó cùng hầu hết tháng 4, Massachusetts một lần nữa đảm trách nhiệm vụ phòng không, lần này là cho các tàu bè Đồng Minh tại Okinawa. Ngày 5 tháng 6, nó chịu đựng một cơn bão khác, Louise, với sức gió lên đến 185 km/h (100 knot). Năm ngày sau, nó nả pháo lên Minamidaitō. Massachusetts cùng với Đệ Tam hạm đội lên đường hướng đến chính quốc Nhật Bản vào ngày 1 tháng 7. Chiếc thiết giáp hạm đã bảo vệ các tàu sân bay khi chúng không kích xuống ngoại vi Tokyo, sau đó tiến đến gần bờ tấn công các mục tiêu đối phương bằng hải pháo. Massachusetts đã tấn công trung tâm luyện gang thép lớn thứ hai của Nhật Bản: Kamaishi trên đảo Honshū, vào ngày 14, Hamamatsu vào ngày 28, và Kamaishi vào ngày 9 tháng 8. Cuộc bắn pháo sau cùng có lẽ là những loạt đạn pháo 406 mm (16 inch) cuối cùng được bắn trong Thế Chiến II.[23]

Cùng với việc chiến tranh kết thúc, Massachusetts một lần nữa đi đến Xưởng hải quân Puget Sound để đại tu; và sau khi hoàn tất, nó khởi hành vào ngày 28 tháng 1 năm 1946 hoạt động ngoài khơi bờ biển California cho đến khi lên đường hướng về Hampton Roads ngang qua kênh đào Panama. Sau khi đến nơi vào ngày 22 tháng 4, Massachusetts được cho ngừng hoạt động vào ngày 27 tháng 3 năm 1947 và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962, nhưng không bị tháo dỡ. Chiếc thiết giáp hạm được trao cho Ủy ban Tưởng niệm Massachusetts vào ngày 8 tháng 6 năm 1965 để trở thành một tàu bảo tàng tại Fall River, Massachusetts.[23]

Alabama

Bài chi tiết: USS Alabama (BB-60)

Việc chế tạo Alabama, chiếc thứ tư và là thành viên cuối cùng của lớp South Dakota, bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 1940 khi lườn của nó được đặt tại Xưởng hải quân Norfolk. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 2 năm 1942 và được đưa vào hoạt động sáu tháng sau đó, 16 tháng 8 năm 1942. Alabama thực hiện chuyến đi chạy thử máy từ vịnh Chesapeake vào ngày 11 tháng 11 và kết thúc tại vịnh Casco, Maine. Những công việc sửa chữa nhỏ được thực hiện tại Norfolk trước khi chiếc thiết giáp hạm mới quay trở lại vịnh Casco tiến hành huấn luyện cơ động cùng với con tàu chị em South Dakota. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1943, Alabama được biệt phái sang Hạm đội Nhà Anh Quốc, và được giao nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải trên đường đi đến Liên Xô. Nó được cho rút khỏi vai trò này vào tháng 7 để quay về Norfolk cho một đợt đại tu ngắn trong tháng 8.[26]

Cuối tháng 8, Alabama khởi hành đi sang Mặt trận Thái Bình Dương. Chiếc thiết giáp hạm được phân về Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ trong các chiến dịch đổ bộ tại quàn đảo Gilbert, đặc biệt là tại Kwajalein vào năm 1944. Trong đêm 21 tháng 2 năm 1944, các khẩu pháo 127 mm (5 inch) của Alabama đã khai hỏa vào máy bay Nhật Bản trong khu vực này. Chiếc tàu chiến đã bẻ lái nhắm vào hướng các máy bay Nhật Bản để có vị trí tác xạ thuận lợi hơn, nhưng tháp pháo sau cùng bị che khuất bởi các bệ pháo giữa tàu. Pháo thủ trên tháp pháo sau cùng vô tình bỏ qua cơ cấu an toàn ngăn không cho khai hỏa trong những hoàn cảnh như vậy, và khi họ nổ súng, đã bắn nhầm vào tháp pháo 127 mm (5 inch) ngay phía trước. Năm người đã thiệt mạng và 11 người khác bị thương trong tai nạn này; và một cuộc điều tra sau đó cho thấy nút bỏ qua cơ cấu an toàn bị hỏng đã đưa đến sự cố.[27]

Alabama bắn rơi chiếc máy bay Nhật Bản đầu tiên trong tháng tiếp theo, tháng 3 năm 1944. Chiếc tàu chiến thực hiện các hoạt động phòng không trong Trận chiến biển Philippine vào tháng 6 năm 1944. Sau đó, nó gia nhập các thiết giáp hạm khác trong hoạt động hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng trên bờ tại quần đảo Mariana. Nó được phân về Lực lượng Đặc nhiệm 34 trong quá trình Trận chiến vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944. Đến đầu năm 1945, Alabama quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound để sửa chữa và tái trang bị; công việc chủ yếu bao gồm cải tiến dàn hỏa lực và thiết bị radar. Vào đầu tháng 5, chiếc thiết giáp hạm quay trở lại khu vực chiến sự, đảm trách vai trò hỗ trợ phòng không cho các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh đang tung ra các cuộc không kích xuống hòn đảo chính quốc Nhật Bản Kyushu. Vào tháng 7 năm 1945, nó bắn phá một số khu vực tại Nhật Bản: Kamaishi trong ngày 14, Hitachi vào ngày 18, và Hamamatsu trong các ngày 2930 tháng 7. Đây trở thành những hoạt động tác chiến cuối cùng của nó trong cuộc chiến tranh. Nhiệm vụ cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm tại Viễn Đông là hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng chiếm đóng lên Nhật Bản trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ.[28]

Vào ngày 9 tháng 1 năm 1947, Alabama được đưa về hạm đội dự bị tại Bremerton, Washington, nơi nó được bỏ không cho đến ngày 1 tháng 6 năm 1962, khi nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân. Alabama được chuyển cho Ủy ban Thiết giáp hạm USS Alabama để sử dụng con tàu như một đài tưởng niệm. Nó được kéo khỏi Bremerton vào ngày 2 tháng 7 năm 1964, đến Mobile, Alabama, nơi nó tiếp tục hiện diện cho đến nay như một tàu bảo tàng.[28]

Đề nghị cải biến

Vào ngày 26 tháng 7 năm 1954, một đề nghị cải biến dành cho lớp tàu South Dakota được Chủ tịch Ủy ban Đặc tính Tàu chiến đặt ra, yêu cầu nâng tốc độ của các con tàu lên ít nhất 57,4 km/h (31 knot). Để làm được điều này, nhóm thiết kế quyết định tháo dỡ tháp pháo đuôi, sử dụng trọng lượng và chỗ trống có được để trang bị các turbine hơi nước cải tiến hoặc một bộ các turbine khí. Cả hai hệ thống này đều sẽ sản sinh một công suất ít nhất 256.000 mã lực (190 MW), là yêu cầu tối thiểu để lườn tàu của lớp South Dakota có thể đạt được tốc độ 57,4 km/h (31 knot). Không may thay, việc này buộc phải thay đổi kiểu dáng lườn tàu, đặc biệt là phần phía sau đuôi. Cũng cần có các chân vịt lớn hơn, và cả bốn trục chân vịt cần phải chế tạo mới toàn bộ để mang chúng. Ước lượng chi phí cho dự án này lên đến 40 triệu Đô-la cho mỗi con tàu, chưa tính đến chi phí tái kích hoạt và nâng cấp chúng với những hệ thống chiến đấu và điện tử mới nhất. Kết quả là chương trình cải biến bị hủy bỏ.[18]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: South Dakota (lớp thiết giáp hạm) (1939) http://www.navweaps.com/Weapons/WNFR_15-45_m1935.h... http://www.navweaps.com/Weapons/WNUS_16-45_mk6.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNUS_5-38_mk12.htm http://www.history.navy.mil/danfs/i1/indiana-ii.ht... http://www.history.navy.mil/danfs/m6/massachusetts... http://www.history.navy.mil/danfs/s15/south_dakota... http://www.history.navy.mil/faqs/faq69-2.htm http://www.ibiblio.org/hyperwar/USN/ref/Fuel/index... http://www.navsource.org/archives/01/05bbidx.htm //www.worldcat.org/oclc/29387525